Hiện trạng dịch bệnh thủy sản: Cảnh báo từ số liệu thực tế
Theo hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia VAHIS do Cục Chăn nuôi và Thú y quản lý, tính đến hết tháng 10 năm 2025, có 285 xã, phường thuộc 18 tỉnh, thành phố trên cả nước công bố xuất hiện dịch bệnh thủy sản. Tổng diện tích nuôi bị thiệt hại là 6.746 ha, tương đương 1,49% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản tại thời điểm báo cáo. Một số địa phương ghi nhận tỷ lệ diện tích bị bệnh cao gồm Vĩnh Long (40,6%), Hưng Yên (17,7%), TP Hồ Chí Minh (15,46%), Quảng Ninh (12,19%) và Gia Lai (7,11%).
Trong số này, tôm sú, tôm thẻ chân trắng và cá tra là ba đối tượng nuôi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Các bệnh thường gặp gồm hoại tử gan tụy cấp (AHPND), đốm trắng, hoại tử cơ, và một số bệnh vi khuẩn trên cá tra như gan thận mủ và xuất huyết. Theo Cục TSKN , các ổ dịch xuất hiện rải rác nhưng có xu hướng gia tăng trong những tháng giao mùa khi điều kiện thời tiết thay đổi bất lợi cho môi trường nuôi.
Báo cáo của Cục TSKN cũng chỉ rõ, trong 10 tháng đầu năm, nhiều tỉnh trọng điểm nuôi trồng như Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp, đã chủ động triển khai biện pháp phòng ngừa và khoanh vùng dịch bệnh. Tuy nhiên, việc giám sát và phát hiện bệnh ở cấp cơ sở vẫn còn mang tính bị động, chủ yếu được thực hiện sau khi có thiệt hại xảy ra.
Theo ông Nguyễn Văn Hữu, Quyền Trưởng phòng Quản lý bệnh thủy sản – Cục TSKN, công tác kiểm soát dịch bệnh hiện vẫn đối mặt với nhiều khó khăn do thiếu hệ thống giám sát chủ động và cảnh báo sớm ở quy mô quốc gia. Các địa phương chưa có mạng lưới thông tin kết nối dữ liệu thống nhất, dẫn tới việc cập nhật, chia sẻ và xử lý thông tin còn chậm, ảnh hưởng đến khả năng dự báo và ứng phó kịp thời.
Những bất cập trong hệ thống quản lý và giám sát dịch bệnh
Một trong những vấn đề hiện nay là bộ máy quản lý nhà nước về thú y thủy sản hiện chưa thống nhất, gây khó khăn trong chỉ đạo, điều hành và phối hợp thực hiện. Hiện nay, công tác quan trắc môi trường nuôi trồng thủy sản thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý thủy sản, trong khi phòng chống dịch bệnh lại do cơ quan thú y phụ trách. Sự tách biệt này khiến hoạt động giám sát, cảnh báo dịch bệnh thiếu tính liên thông, khó tạo nên một hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả.
Bên cạnh đó, một số văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về quản lý dịch bệnh thủy sản vẫn chưa được sửa đổi đồng bộ với bộ máy mới của Bộ Nông nghiệp và Môi trường sau ngày 01/3/2025, khi Cục TSKN chính thức được hợp nhất. Điều này dẫn tới một số chồng chéo trong việc phân công, phân cấp trách nhiệm giữa các đơn vị và địa phương.
Hiện nay, cả nước mới có số lượng hạn chế các tổ chức được chỉ định xét nghiệm bệnh thủy sản, trong khi nhu cầu xác nhận, công bố và giám định bệnh ngày càng tăng. Thực tế cho thấy, một số tổ chức, cá nhân tự công bố thông tin dịch bệnh không qua kiểm chứng đã gây khó khăn cho công tác thống kê, ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản, đặc biệt là các lô hàng xuất khẩu sang thị trường châu Âu, Mỹ và Nhật Bản – những nơi có yêu cầu nghiêm ngặt về kiểm dịch và truy xuất nguồn gốc.
Về nguồn lực, kinh phí giám sát và phòng chống dịch tại địa phương còn hạn chế. Một số tỉnh chỉ mới triển khai giám sát được các bệnh phổ biến trên tôm sú, tôm thẻ và cá tra, chưa đủ điều kiện để bao quát các đối tượng nuôi khác như cá biển, nhuyễn thể hay thủy đặc sản nội địa. Công tác nghiên cứu và sản xuất vắc xin thủy sản tuy được khởi động ở một số viện nghiên cứu, nhưng đến nay vẫn còn rất ít sản phẩm được thương mại hóa, nhất là đối với các bệnh nguy hiểm trên cá tra và cá biển.
Xây dựng hệ thống quản lý thống nhất, dữ liệu số và cảnh báo sớm
Trước những tồn tại trên, Cục TSKN đã đề xuất một loạt định hướng và giải pháp quản lý mới nhằm chủ động ứng phó với dịch bệnh, đảm bảo phát triển nuôi trồng thủy sản an toàn, hiệu quả và bền vững.
Thứ nhất, ngành thủy sản xác định cần xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về thú y thủy sản theo hướng thống nhất đầu mối từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo chỉ đạo xuyên suốt, rõ trách nhiệm, tránh chồng chéo giữa các cơ quan. Bộ Nông nghiệp và Môi trường được đề nghị rà soát, sửa đổi và đồng bộ hóa hệ thống văn bản pháp luật về thú y thủy sản, phù hợp với mô hình quản lý mới và thực tiễn sản xuất.
Thứ hai, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dịch tễ thủy sản là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2025 - 2026. Cơ sở dữ liệu này sẽ kết nối thông tin giữa các viện nghiên cứu, trung tâm kiểm nghiệm, phòng thí nghiệm doanh nghiệp và các địa phương, tạo nền tảng cho việc ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI) và chuyển đổi số trong giám sát, phân tích và dự báo dịch bệnh. Đây được xem là một trong những bước đi quan trọng hướng tới “quản lý dịch bệnh chủ động”, thay vì chỉ ứng phó sau khi dịch xảy ra.
Thứ ba, Cục TSKN đề xuất tăng cường liên thông giữa công tác quan trắc môi trường và phòng chống dịch bệnh, thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và chính quyền địa phương trong giám sát, cảnh báo, xử lý dịch. Các địa phương được khuyến khích xây dựng vùng nuôi an toàn dịch bệnh, tiến tới cấp chứng nhận cơ sở an toàn dịch bệnh thủy sản (ATDB). Theo số liệu cập nhật tới tháng 10/2025, cả nước đã có gần 1.200 cơ sở được chứng nhận ATDB, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm 2024.
Ngoài ra, việc nghiên cứu, sản xuất và sử dụng vắc xin, chế phẩm sinh học trong phòng bệnh thủy sản sẽ tiếp tục được ưu tiên. Cục TSKN đang phối hợp với các viện nghiên cứu như Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, Trường Đại học Nha Trang và một số doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực sinh học thủy sản để thử nghiệm và đăng ký các sản phẩm vắc-xin mới cho cá tra, cá rô phi và tôm thẻ.
Tăng cường vai trò phối hợp giữa trung ương, địa phương, doanh nghiệp và người nuôi
Đối với Cục TSKN, cần tiếp tục tham mưu cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong việc hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về dịch bệnh thủy sản theo hướng tập trung và thống nhất. Đồng thời, Cục sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dịch tễ thủy sản, đảm nhận vai trò điều phối các hoạt động giám sát, phòng chống dịch trên phạm vi toàn quốc.
Đối với các Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành phố, cần kiện toàn bộ máy quản lý thú y thủy sản cấp tỉnh, bảo đảm đủ nhân lực và nguồn lực thực hiện công tác giám sát, phòng chống dịch. Các Sở cũng cần chủ động tham mưu UBND cấp tỉnh bố trí ngân sách trung hạn, dài hạn cho công tác phòng chống dịch, đồng thời tăng cường kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở nuôi về quy trình an toàn sinh học và khai báo dịch bệnh đúng quy định.
Với các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, Cục TSKN khuyến khích đăng ký và được chỉ định tham gia hoạt động xét nghiệm bệnh thủy sản, đồng thời tuân thủ nghiêm quy định công bố kết quả nghiên cứu để tránh tác động tiêu cực đến thị trường. Cục cũng đề nghị các đơn vị phối hợp chia sẻ dữ liệu quan trắc, giám sát dịch bệnh với cơ quan quản lý, phục vụ cảnh báo sớm và hỗ trợ hoạch định chính sách.
Về phía người nuôi và cộng đồng, việc nâng cao nhận thức về an toàn sinh học và tuân thủ khai báo dịch bệnh được coi là yếu tố quyết định. Cục TSKN đề nghị người nuôi không tự ý công bố thông tin dịch bệnh chưa được xác minh, đồng thời chủ động tham gia các chương trình chứng nhận cơ sở an toàn dịch bệnh, vùng nuôi an toàn, góp phần xây dựng hình ảnh ngành thủy sản Việt Nam minh bạch, an toàn và có trách nhiệm.
Theo thống kê mới nhất (tháng 11/2025), hiện có trên 5.000 ha vùng nuôi tôm và 3.200 ha vùng nuôi cá tra đã đăng ký xây dựng mô hình vùng nuôi an toàn dịch bệnh, trong đó gần một nửa đạt tiêu chuẩn cấp tỉnh. Đây được xem là hướng đi phù hợp giúp tăng sức cạnh tranh và đảm bảo yêu cầu xuất khẩu sang các thị trường lớn như Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ.
Công tác quản lý dịch bệnh thủy sản không chỉ là nhiệm vụ của ngành mà còn gắn trực tiếp với phát triển kinh tế, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mưa lũ cực đoan và ô nhiễm nguồn nước diễn biến khó lường, việc xây dựng hệ thống quản lý dịch bệnh thống nhất, chủ động và ứng dụng công nghệ số là bước đi tất yếu.
Theo định hướng giai đoạn 2026 - 2030, Cục TSKN sẽ hoàn thiện mạng lưới giám sát chủ động quốc gia, tích hợp hệ thống dữ liệu môi trường – dịch bệnh – sản xuất trên nền tảng số, hướng tới cảnh báo sớm và ứng phó nhanh, giảm thiểu thiệt hại và nâng cao hiệu quả sản xuất. Đồng thời, ngành thủy sản đặt mục tiêu đến năm 2030, trên 70% vùng nuôi tập trung đạt chứng nhận an toàn dịch bệnh và 100% cơ sở nuôi trọng điểm có đăng ký giám sát môi trường định kỳ.
Những giải pháp mà Cục TSKN đưa ra hướng tới xây dựng nền thủy sản hiện đại, bền vững, có khả năng chống chịu cao trước biến động. Từ đổi mới hệ thống quản lý, phát triển dữ liệu số, tăng cường liên kết liên ngành đến nâng cao nhận thức cộng đồng, tất cả đều hướng đến mục tiêu chung: giữ vững sinh kế cho người dân, đảm bảo an toàn thực phẩm và nâng cao vị thế thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế.
Hải Đăng